Tài liệu ôn tập Văn 7- kì 2
PHẦN : TẬP LÀM VĂN
I) LÍ THUYẾT
A – Để làm tốt bài văn nghị luận
I – Đặc điểm và yêu cầu của văn nghị luận
Trong đời sống, người ta luôn phải bày tỏ ý kiến của mình về các hiện tượng tự
nhiên về các hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh. Một cuộc thảo luận tổ,
một cuộc họp, một vấn đề trong cuộc sống, một chính sách mới, một tác phẩm nghệ
thuật, ... đều đòi hỏi mọi người bày tỏ thái độ của mình. Khác với lối bày tỏ bằng
cảm xúc trong văn biểu cảm, việc bày tỏ ý kiến trong văn nghị luận nhằm giải
thích, chứng minh, thuyết phục người nghe, người đọc một tư tưởng, một quan
điểm nào đó
Muốn cho người đọc người nghe cũng hiểu như mình, đồng tình và ủng hộ quan
điểm của mình, người viết văn nghị luận phải có những luận điểm rõ ràng, có lí lẽ
đúng đắn, chặt chẽ rút từ sách vở, từ đời sống và có những dẫn chứng đáng tin cậy,
thuyết phục
Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận để dẫn đến luận
điểm
Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới
hình thức khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán.
Luận điểm là linh hồn của bài viết. Luận điểm đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu
cầu thực tế thì mới có sức thuyết thục. Ví dụ trong bài “Chống nạn thất học”, luận
điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh là: Phải nâng cao dân trí, muốn nâng cao dân trí thì
phải chống nạn thất học, cụ thể là mỗi người Việt Nam phải biết đọc, biết viết.
Trong bài Sự giàu đẹp của Tiếng Việt, luận điểm chính là: Tiếng Việt của chúng ta
là một thứ tiếng vừa giàu, vừa đẹp. Đó là quan niệm, là cách đánh giá của nhà
nghiên cứu Đặng Thai Mai
Luận điểm mà người viết nêu ra có tính thuyết phục phải có hai yếu tố quan trọng.
Đó là phải được đảm bảo bẳng luận cứ chắc chắn và lập luận chặt chẽ.
Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cở sở cho luận điểm. Trong bài “Tinh thần
yêu nước” của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu luận điểm: “Dân ta có một